Thơ Tết xưa

Sắp Tết sưu tầm một số bài thơ xuân cổ điển để bạn bâng khuâng một chút trong những ngày cận kề Tết. Bâng khuâng xong, chúng ta lại tiếp tục học tập và làm việc, vì bạn nhớ chứ, chỉ còn ít ngày nữa là Tết thôi đấy!

Cáo tật thị chúng

Mãn Giác thiền sư

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Có bệnh bảo mọi người

Ngô Tất Tố dịch

Xuân ruổi trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai.

Nguồn: Thơ văn Lý – Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977; Wikisource; Thư viện Hoa Sen.

Ông đồ

Vũ Đình Liên

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua.

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay"
.

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...

Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài giời mưa bụi bay.

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa,
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

Nguồn: Thi nhân Việt Nam, NXB Văn Học.

"Ông (đồ) chính là cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn" (Trích thư cụ Vũ Đình Liên gửi cụ Hoài Thanh – Hoài Chân. Nguồn: Thi nhân Việt Nam).

Lời bình của Sắp Tết: Cụ Vũ Đình Liên viết kiệt tác (chữ của cụ Hoài Thanh) hoài cổ "Ông đồ" vào năm 1936, nghĩa là cho đến Tết Tân Sửu 2021 này, đã gần một thế kỷ trôi qua! Cách đây gần một thế kỷ mà các cụ đã không còn thấy "ông đồ xưa" đâu nữa, đã u uẩn gọi hồn "những người muôn năm cũ" một cách thăm thẳm, thương tâm như thế, hỏi Tết bây giờ còn "gọi" lại được bao nhiêu cái "hồn" cổ xưa ngàn năm Việt?

Câu thứ 16 xin đọc là "Ngoài giời mưa bụi bay" theo đúng văn bản in trong Thi nhân Việt Nam, không phải "Ngoài trời mưa bụi bay". "Giời" cũng được sử dụng nhiều chứ không chỉ trong lời nói hay văn bản cổ xưa: Giời mưa ở Huế sao buồn thế (Nguyễn Bính), Ơn giời cậu đây rồi...

Đánh đu

Hồ Xuân Hương

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai du gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá,
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

Nguồn: Thơ Hồ Xuân Huơng. NXB Văn học, Hà Nội, 1993.

Phân tích của nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy: Một điều đáng lưu ý là ở mỗi biểu tượng thơ Hồ Xuân Hương đều lấp lánh hai nghĩa thiêng và tục, thanh và tục. Ví như, đánh đu là một trong những biểu tượng tính giao có lẽ cổ sơ hơn cả. Đó là một trò chơi không thể thiếu được trong những ngày Tết hoặc hội xuân ở làng quê. Mùa xuân là lúc trời đất, âm dương giao hòa, thuận lợi cho muôn vật sinh sôi nảy nở. Bởi vậy, để cân bằng âm dương, thường thì một nam một nữ cùng chơi... Khi cây đu chuyển động thì chính là sự chuyển động của người đàn ông (so với người đàn bà) từ nằm dưới lên nằm trên, rồi lại từ nằm trên xuống nằm dưới. Còn người đàn bà thì ngược lại. Đây là sự bù trừ, đắp đổi, sự giao hòa năng lượng nam và năng lượng nữ mang ý nghĩa phồn thực. Bài thơ "Đánh đu" của Hồ Xuân Hương đầy những chuyển động, những màu sắc, không khí tươi vui của xuân trong trời đất và xuân trong lòng người: "Trai đu gối hạc khom khom cật", "Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng", "Bốn mảnh quần hồng bay phới phới", "Hai hàng chân ngọc duỗi song song". Những hình ảnh trên cộng với cách dùng từ dôi nghĩa như "trồng" (tiếng miền Bắc đọc chệch là "chồng"), xếp chồng lên nhau, chồng vợ: Bốn cột khen ai khéo khéo trồng! Phụ âm đầu c, l trong câu "Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không", các từ láy đôi đầy ám ảnh: Khéo khéo, khom khom, ngửa ngửa, phới phới, song song, làm bài thơ dậy lên nghĩa khác, nghĩa tục, chỉ hành động tính giao. (Nguồn: Vấn đề dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương, Đỗ Lai Thúy, báo QĐND đăng ngày 26/9.2013).

Lời thêm của Sắp Tết: Nếu bạn chưa biết, có lẽ bạn nên thử trải nghiệm đánh đu một lần trong đời, để cảm nhận được thế nào là "Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không" nhé. Lần gần nhất tôi tham gia đánh đu là ở hội Lim Bắc Ninh (12, 13 Tết), cách đây chắc cũng hơn 10 năm có lẻ rồi. Tết này biết có còn không???

Mùa xuân chín

Hàn Mặc Tử

Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
– Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.

Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
– Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

Nguồn: Thi nhân Việt Nam, NXB Văn Học.

Mưa xuân

Nguyễn Bính

Em là con gái trong khung cửi,
Dệt lụa quanh năm với mẹ già.
Lòng trẻ còn như vuông lụa trắng,
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy, mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,
Mẹ bảo: "Thôn Đoài hát tối nay".

Lòng thấy giăng tơ một mối tình,
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh.
Hình như... hai má em bừng đỏ,
Có lẽ... là em nghĩ tới anh.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn,
Em ngửa bàn tay trước mái hiên.
Mưa chấm tay em từng chấm lạnh,
Thế nào anh ấy chẳng sang xem.

Em xin phép mẹ, vội vàng đi,
Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe.
Mưa bụi nên em không ướt áo,
Thôn Đoài cách có một thôi đê.

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm,
Em mải tìm anh, chả thiết xem.
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh,
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Chờ mãi anh sang, anh chả sang,
Thế mà hôm nọ hát bên làng,
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng!

Mình em lầm lũi trên đường về,
Có ngắn gì đâu một dải đê,
Áo mỏng che đầu, mưa nặng hạt
Lạnh lùng em tủi với canh khuya.

Bữa ấy, mưa xuân đã ngại bay,
Hoa xoan đã nát dưới chân giầy.
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ,
Mẹ bảo: "Mùa xuân đã cạn ngày".

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ
Để mẹ em rằng: "Hát tối nay!"

Nguồn: Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986.

Lời bình của Sắp Tết: Từ hôm hội chèo làng Đặng đến làng em ("đi ngang ngõ") cho tới hôm về, mưa xuân hết, hoa xoan nát, em toàn lủi thủi một mình. Em ở quanh năm với mẹ nhưng mấy khi bận tâm đến mẹ đâu, tâm trí em toàn nghĩ đến anh thôi đấy chứ! Cả bài thơ dài như thế mà em xin phép mẹ có mỗi một câu (mà xin phép khẩn trương để còn "vội vàng đi" cho kịp! – Ý đoạn thơ này làm tôi nhớ đến câu Kiều trác tuyệt "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" tả cảnh nàng Kiều quyết tâm vượt qua lễ giáo, đêm hôm một mình "xăm xăm" sang nhà Kim Trọng, chủ động đi tìm tình yêu). Nàng Kiều của Nguyễn Du may mắn "một phát ăn ngay", còn em thì thật đen đủi trong mùa xuân này! Nhưng, kể cả là cái "anh" kia quá vô tâm, hay là anh đã có vợ (hihi... đùa thôi...), thì, như người ta nói, "đời còn dài giai còn nhiều", hết Tết này lại sắp đến Tết khác, nhanh lắm em à! Cứ thêm Sắp Tết vào điện thoại của em để đếm ngược đến hội chèo làng Đặng và chúc em may mắn lần sau, em nhé!

Xuân tha hương

Nguyễn Bính
Gửi chị Trúc

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi! Chị một em, em một chị
Giời làm xa cách mấy con sông...
Em đi dang dở đời mưa gió
Chị ở vuông tròn phận lãnh cung
Chén rượu tha hương! Giời! Đắng lắm!
Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông
Chiều qua ngồi ngắm hoàng hôn xuống
Nhớ chị em sao nhớ lạ lùng!

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Vườn ai thấp thoáng hoa đào nở
Chị vẫn môi son, vẫn má hồng?
Áo rét ai đan mà ngóng đợi
Còn vài hôm nữa hết mùa đông!
Cột nhà hàng xóm lên câu đối
Em đọc tương tư giữa giấy hồng
Gạo nếp nơi đây sao trắng quá
Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông
Thiên hạ đua nhau mà sắm tết
Một mình em chị vẫn tay không
Vườn nhà tết đến hoa còn nở?
Chị gửi cho em một cánh hồng
(Tha hương chả gặp người tri kỷ
Một cánh hoa tươi đã chạnh lòng)

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Chao ôi! Tết đến em không được
Trông thấy quê hương thật não nùng!
Ai bảo mắc vào duyên bút mực
Suốt đời mang lấy số long đong!
Người ta đi kiếm giàu sang cả
Mình chỉ mơ toàn chuyện viển vông
Em biết giàu sang đâu đến lượt
Nợ đời nặng quá gỡ sao xong?

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Tết này, ô thế mà vui chán
Những một mình em uống rượu hồng
Rượu say nhớ chị thời con gái
Thương chị từ khi chị lấy chồng
Cố nhân chẳng biết làm sao ấy
Rặt những tin đồn chuyện bướm ong...
Thôi, em chả dám đa mang nữa
Chẳng buộc vào chân sợi chỉ hồng
Nàng bèo bọt quá em lăn lóc
Chắp nối nhau hoài cũng uổng công!
(Một trăm con gái đời nay ấy
Đừng nói ân tình với thủy chung!)
Người ấy xuân già chê gối lẻ
Nên người nong nả chuyện sang sông
Đò ngang bến dọc tha hồ đấy
Quý hóa gì đâu một chữ đồng!
Vâng, em trẻ dại, em đâu dám...
Thôi, để người ta được kén chồng
Thiếu nữ hoài xuân mơ cát sĩ
Chịu làm sao được những đêm đông
(Khốn nạn tưởng yêu thì khó chứ
Không yêu thì thực dễ như không!)
Chị ơi! Tết đến em mua rượu
Em uống cho say đến não nùng
Uống say cười vỡ ba gian gác
Ném cái chung tình xuống đáy sông
Thiên hạ "Chi nghinh nam bắc điểu"
Tình đời "Diệp tống vãng lai phong"

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Sương muối gió may rầu rĩ lắm
Còn vài hôm nữa hết mùa đông
Xuân đến cho em thêm một tuổi
Thế nào em cũng phải thành công
Em không khóc nữa không than nữa
Đây một bài thơ hận cuối cùng
Không than chắc hẳn hồn tươi lại
Không khóc tha hồ đôi mắt trong
Chị ơi! Em cưới mùa xuân nhé?
Đốt pháo cho thơm với rượu hồng
Xa nhà, xa chị tuy buồn thực
Cũng cố vui ngang gái được chồng
Em sẽ uống say hơn mọi bận
Để hồn về mãi xứ Hà Đông

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Với lá thư này là tất cả
Những lời tâm sự một đêm đông
Thôn gà eo óc ngoài xa vắng
Trời đất tàn canh tối mịt mùng
Đêm nay em thức thi cùng nến
Ai biết tình em với núi sông
Mấy sông mấy núi mà xa được
Lòng chị em ta vẫn một lòng

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Cầu mong cho chị vui như tết
Tóc chị bền xanh, má dậy hồng
Trong mùa nắng mới sầu không đến
Giữa hội hoa tươi ấm lại lòng
Chắc chị đời nào quên nhắc nhở:
– Xa nhà, rượu uống có say không?

Nguồn: Thơ Nguyễn Bính, NXB Văn hoá thông tin.

Lời bình của Sắp Tết:

Ai tha hương, không về quê ăn Tết được, gánh nợ gánh nần, mà lại còn thêm cái "nhọ" thất tình nữa, đọc bài này dễ ôm mặt khóc hu hu lên ngay được!

Cái câu "Khốn nạn tưởng yêu thì khó chứ – Không yêu thì thực dễ như không!" chắc cụ Nguyễn Bính đùa, vì những người cùng thời có kể là nghe đâu cụ cũng phong tình ra phết 🙂

Bài thơ này có đúng 100 câu (cụ Nguyễn Bính "chịu chơi" thật!)

Câu cửa miệng "Vui như Tết" có người nói bắt nguồn từ bài thơ này ("Cầu mong cho chị vui như tết"), không biết thực hư ra sao?

Nhạc xuân

Nguyễn Bính
Khai bút năm Canh Thìn 1940

Hôm nay là xuân, mai còn xuân;
Xuân đã sang đò nhớ cố nhân.
Người ở bên kia sông cách trở,
Có về Chiêm Quốc như Huyền Trân?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân;
Phơi phới mưa sa nhớ cố nhân.
Phận gái ví theo lề ép uổng,
Đã về Chiêm Quốc như Huyền Trân?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân;
Lăng lắc đường xa nhớ cố nhân.
Nay đã vội quên tình nghĩa cũ,
Mà về Chiêm Quốc như Huyền Trân?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân;
Một cánh đào rơi nhớ cố nhân.
Cung nữ như hoa vườn Thượng uyển.
Ai về Chiêm Quốc với Huyền Trân?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân;
Rượu uống say rồi nhớ cố nhân.
Đã có yêu nhau là đến thế,
Đừng về Chiêm Quốc nhé Huyền Trân?

Đừng về Chiêm Quốc nhé Huyền Trân;
Ta viết thơ này gửi cố nhân,
Năm mới, tháng giêng, mồng một tết,
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.

Huyền Trân ơi!
Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi.
Giờ đây chín vạn bông trời nở,
Riêng có tình ta khép lại thôi!

Nguồn: Hương cố nhân, NXB Á Châu, 1941.

Chú thích: Huyền Trân, tức Huyền Trân Công chúa, là công chúa con vua Trần Nhân Tông, được gả cho vua Chế Mân của vương quốc Chiêm Thành (1306).

Chào Nguyên Xuân

Bùi Giáng

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng:

Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người.

Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng: những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau.

Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng: bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây.

Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu.

Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.

Nguồn: Mưa nguồn, nhà in Sơ Khai, Sài Gòn, 1963.

Lời bình của nhà phê bình văn học Đặng Tiến: Xuân trong thơ Bùi Giáng là xuân không mùa, xuân duy nhất và tuyệt đối, mà ông gọi là Nguyên Xuân (Lá Hoa Cồn, tr. 26), là khởi thủy của nguồn sống, nguồn thơ, quê của Em Mọi, của Đười Ươi, đồng thời là đối tượng, là cứu cánh của sáng tạo, của Lời Cố Quận, Tiếng Gọi Về... Mưa Nguồn thi phẩm đầu tay và đều tay nhất của Bùi Giáng được in năm 1962, gồm có nhiều bài làm từ 1948. Lời thơ trong sáng, tươi thắm và tha thiết, vào tập bằng hai câu mào đầu:

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau

là câu thơ nổi tiếng sớm nhất của Bùi Giáng, vì nó có thể được sử dụng ở nhiều tần số khác nhau: buồn hay vui, u hoài hay đùa cợt, ví dụ khi bè bạn gặp nhau ngoài phố, lặp lại câu thơ: xin chào nhau giữa con đường, dù không hiểu miên trường là gì.

Và ý tác giả có thể ngược lại: mùa xuân phía sau, miên trường phía trước. (Nguồn: Bùi Giáng Nguồn Xuân, Đặng Tiến, lưu trữ trên blog Đoàn Thuận).

Xuân

Chế Lan Viên

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Ðem chi xuân lại gợi thêm sầu?
– Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!

Ai biết hồn tôi say mộng ảo
Ý thu góp lại cản tình xuân?
Có một người nghèo không biết tết
Mang lì chiếc áo độ thu tàn!

Có đứa trẻ thơ không biết khóc
Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran!
Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn

Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, NXB Văn học.

Lời bình của cụ Hoài Thanh: Một lần khác, cũng nhớ thu, Chế Lan Viên than:

Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.

Nỗi mong nhớ ở đây đã thành thực, mà còn to lớn lạ lùng. Con người này quả là người của trời đất, của bốn phương, không thể lấy kích tấc thường mà hòng đo được.

Ưa mùa thu, ghét mùa xuân, trong khi xuân đến, người muốn:

Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi muôn cánh rã
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!

Ý muốn ngông cuồng, ngộ nghĩnh? Đã đành. Trong cái ngộ nghĩnh, cái ngông cuồng ấy tôi còn thấy một sức mạnh phi thường. Chắn một luồng gió, chắn một dòng sông, chắn những đợt sóng hung hăng ngoài biển cả, nhưng mà "chắn nẻo xuân sang!". Sao người ta lại có thể nghĩ được như thế? (Nguồn: Thi nhân Việt Nam).

Lời bình của nhà phê bình Đỗ Trường: Nếu những bài thơ xuân của Nguyễn Bính, Anh Thơ... cùng viết vào thời điểm đó, là sự thanh bình, tươi mới, thì Xuân của Chế Lan Viên là sự bế tắc của cuộc sống cũng như tâm hồn. Từ những bế tắc, cô đơn ấy luôn làm cho nhà thơ phải chống chọi, níu kéo vào thời gian, vũ trụ. Và chính cái mùa thu lá rụng đó mới là nơi ẩn nấp, che chắn cho tâm hồn đang nhỏ máu của thi nhân. Nhưng cái vòng quay tuần hoàn của thời gian kia, vẫn đang cày xới đến cái tận cùng của nỗi đau và tuyệt vọng ấy. Và rồi, dường như nhà thơ đã bất lực? Với tôi, Xuân của Chế Lan Viên là một bài thơ viết về mùa xuân lạ nhất, sầu thảm nhất, và hay nhất của nền văn học Việt Nam. (Nguồn: Chế Lan Viên, từ tiếng kêu bi ai đến lời sám hối muộn màng, Văn Tuyển).

Năm mới chúc nhau

Tú Xương (Trần Tế Xương)

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang,
Đứa thời mua tước đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

Nó lại mừng nhau cái sự giàu,
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu?
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng đồng rơi, lọ phải cầu.

Nó lại mừng nhau sự lắm con,
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.

Nguồn: Thơ Tú Xương, NXB Văn học

Chiều (Màu cây trong khói)

Hồ Dzếnh

Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây.

Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?

Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây.

Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây.

Nguồn: Quê ngoại, NXB Hoa Tiên, Sài Gòn, 1969

Lời bình của Sắp Tết: Không có văn bản hay giai thoại nào nói rằng bài thơ "Chiều" của Hồ Dzếnh được viết vào dịp Tết, hay viết cho ngày Tết. Tuy nhiên cái cảm xúc bâng khuâng man mác, buồn nhẹ nhàng của người con xa quê (Cha cụ Hồ Dzếnh là người gốc Trung Quốc), vẫn mang lại cho ta nhiều đồng cảm trong những ngày sắp Tết. Cái thời gian không nhất thiết là Tết nhưng cái tình rất dễ Tết. Riêng kính tặng những người Việt xa đất nước không thể về quê ăn Tết năm nay.

Chú thích: Bài thơ đã được nhạc sĩ Dương Thiệu Tước phổ nhạc thành bài hát Chiều. Cụ Hồ Dzếnh còn là tác giả bài thơ Ngập ngừng với hai câu nổi tiếng "Tình mất vui khi đã vẹn câu thề – Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dở" tạo cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ phổ thành ca khúc mà nổi tiếng nhất có lẽ là bài "Chuyện hẹn hò" của Trần Thiện Thanh (Hẹn chiều nay mà sao không thấy em...)

Copy và dán vào ứng dụng bạn muốn chia sẻ: